Bối cảnh Trận_sông_Piave_(1918)

Với việc Đế quốc Nga tan rã và chính quyền Nga Xô viết tuyên bố rút khỏi chiến tranh năm 1917, đế quốc Áo-Hung bây giờ có thể huy động một lực lượng lớn nhằm tung vào Mặt trận Ý cũng như nhận được sự chi viện đáng kể từ đồng minh là Đế chế Đức. Hoàng đế Áo-Hung là Karl I đã đồng ý với người Đức mở một cuộc tấn công lớn nhằm loại bỏ nước Ý ra khỏi chiến tranh, hành động này cũng nhận được sự ủng hộ của Tổng tham mưu trưởng quân đội Áo-Hung Arthur Arz von Straußenburg và Tư lệnh của Cụm Tập đoàn quân Nam Tyrol là Franz Konrad von Hötzendorf (Konrad chính là cựu tham mưu trưởng Áo).[6] Và thế là vào mùa thu năm 1917 quân Ý lãnh phải một thất bại thê lương ở Caporetto với hàng trăm nghìn binh sĩ bị bắt và đào ngũ. Tàn quân Ý buộc phải lui về phòng thủ tại phòng tuyến sông Piave trong khi liên quân Áo - Đức thì truy kích sát nút. Các nước đồng minh Anh-Pháp buộc phải vội vã gửi viện quân sang để ngăn chặn sự sụp đổ của quân đội Ý. Thảm họa Caporetto đã khiến Tổng tham mưu trưởng quân đội Ý Luigi Cadorna bị huyền chức; người thay thế ông là tướng Armando Diaz.

Arthur Arz von Straußenburg, Tổng tham mưu trưởng quân đội Áo-Hung.Armando Diaz, Tổng tham mưu trưởng quân đội Ý.

Quân đội Áo-Hung quyết định tiếp tục mở các đợt tấn công nhằm khai thác chiến quả đạt được ở Caporetto và tiêu diệt hoàn toàn tàn binh của người Ý. Tuy nhiên các tướng lĩnh của Áo không thống nhất về hướng tiến công. Konrad muốn mở đợt tấn công vào khu vực dãy Anpơ thuộc Nam Tyrol hướng về bình nguyên Asiago, và Vicenza. Còn tướng Svetozar Boroević von Bojna thì muốn đánh trực diện vào phòng tuyến sông Piave.[7] Về phía mình, Tổng tham mưu trưởng Straußenburg ưu tiên nhiều hơn vào hướng tấn công ở phía Tây mặt trận Ý (khu vực "Giudicarie") dẫn tới Brescia. Bản thân Konrad và Boroević không ưa nhau và đều bảo vệ quyết liệt ý kiến của mình, điều này khiến Straußenburg và hoàng đế Áo cảm thấy khó khăn khi phải lựa chọn theo ai. Kết quả là quân Áo-Hung được chia đều cho hai vị tướng cứng đầu, chỉ đề lại một lực lượng nhỏ nghi binh ở khu vực Giudicarie. Việc chuẩn bị tấn công bắt đầu vào tháng 2 năm 1918 sau cuộc họp của các tướng lĩnh cấp cao của Đức và Áo tại Bolzano. Tuy nhiên, bắt nguồn từ những nỗ lực mở một đột phá khẩu qua đỉnh Grappa sau đó, người Áo không mở các mũi tấn công với mật độ cao trên một chính diện hẹp như ở chiến thắng Caporetto, thay vào đó toàn bộ quân lực sẽ tổng tấn công toàn diện trên khắp mặt trận bằng các đòn đánh vỗ mặt. Quân đội Áo-Hung lần này được huấn luyện để thực thi chiến thuật mới do quân Đức áp dụng thành công trong Chiến dịch Mùa xuân 1918 tại mặt trận Pháp-Đức; bản thân các sĩ quan Áo-Hung được gọi từ các mặt trận khác đến miền Bắc Ý cũng từng được huấn luyện kỹ lưỡng chung với các đồng nghiệp Đức.

Người Ý cũng không ngồi yên: sau khi nghiên cứu kỹ về tai họa xảy ra ở Caporetto, Armando Diaz và các cộng sự đã kết luận rằng vấn đề chiến thuật chủ yếu của quân Ý chính là sự thiếu linh hoạt của các đơn vị gây ra bởi các một triết lý phòng thủ quá cứng nhắc và sự tập trung quá đáng của hệ thống chỉ huy; đồng thời tuyến phòng ngự của quân Ý cũng thiếu chiều sâu cần thiết dẫn đến việc các binh sĩ bị nhồi nhét quá mức ở tuyến đầu và sẽ lãnh đủ mọi thứ đạn pháo do quân địch chụp lên. Như vậy, những thay đổi trong quân đội Ý đã dẫn đến sự loại bỏ hệ thống chiến hào kéo dài liên tục trên chiến trường và sự phát triển của hệ thống phòng thủ cơ động cao trong đó các đơn vị nhỏ có thể di chuyển tự do giữa hai cứ điểm cho phép và được quyền độc lập trong việc quyết định rút lui, phản kích hay gọi pháo binh hỗ trợ. Thêm vào đó, quân đội Ý cũng tổ chức một lực lượng dự bị mạnh bao gồm 13 sư đoàn và 6 nghìn xe vận tải, sẵn sàng được tung vào mặt trận khi cần thiết.

Liên quan